TẠI SAO CUỘC KHỦNG HOẢNG UKRAINE LÀ LỖI CỦA PHƯƠNG TÂY
NHỮNG ẢO TƯỞNG TỰ DO ĐÃ KHIÊU KHÍCH PUTIN
John Mearsheimer / Foreign Affairs số tháng Tám và Chín năm 2014
Cuộc khủng hoảng cho thấy chính sách thực dụng vẫn còn phù hợp -- và các quốc gia phớt lờ nó sẽ tự chuốc lấy nguy hiểm cho chính mình. Các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu đã mắc sai lầm khi cố gắng biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ở biên giới Nga. Bây giờ hậu quả đã rõ ràng, sẽ là một sai lầm lớn hơn nếu tiếp tục chính sách sai lầm này.
Theo quan điểm phổ biến ở phương Tây, cuộc khủng hoảng Ukraine có thể đổ lỗi gần như hoàn toàn cho sự gây hấn của Nga. Lập luận cho rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sáp nhập Crimea vì mong muốn từ lâu nhằm hồi sinh đế chế Xô Viết, và cuối cùng ông có thể sẽ theo đuổi phần còn lại của Ukraine, cũng như các quốc gia khác ở Đông Âu. Theo quan điểm này, việc lật đổ Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych vào tháng 2 năm 2014 chỉ đơn thuần là cái cớ để Putin quyết định ra lệnh cho lực lượng Nga chiếm một phần lãnh thổ Ukraine.
Nhưng tính toán này là sai: Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu của nó chia sẻ phần lớn trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng. Gốc rễ của rắc rối là sự mở rộng của NATO, yếu tố trung tâm của một chiến lược lớn hơn nhằm đưa Ukraine ra khỏi quỹ đạo của Nga và hội nhập nước này vào phương Tây. Đồng thời, sự mở rộng của EU về phía đông và sự ủng hộ của phương Tây đối với phong trào ủng hộ dân chủ ở Ukraine - bắt đầu với cuộc Cách mạng Cam năm 2004 - cũng là những yếu tố quan trọng. Kể từ giữa những năm 1990, các nhà lãnh đạo Nga đã kiên quyết phản đối sự mở rộng của NATO, và trong những năm gần đây, họ đã nói rõ rằng họ sẽ không khoanh tay đứng nhìn khi nước láng giềng chiến lược quan trọng của họ trở thành một pháo đài của phương Tây. Đối với Putin, việc lật đổ bất hợp pháp tổng thống được bầu cử dân chủ và thân Nga của Ukraine - mà ông đã gọi đúng tên là một cuộc "đảo chính" - thành giọt nước tràn ly cuối cùng.
Sự phản kháng của Putin lẽ ra không có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng, phương Tây đã và đang tiến vào sân sau của Nga và đe dọa các lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điểm mà Putin nhấn mạnh và lặp đi lặp lại. Giới tinh hoa ở Hoa Kỳ và Châu Âu bị che mắt bởi các sự kiện chỉ bởi vì họ có quan điểm sai lầm về chính trị quốc tế. Họ có xu hướng tin rằng logic của chủ nghĩa hiện thực không mấy phù hợp trong thế kỷ 21 và rằng châu Âu có thể được giữ nguyên vẹn và tự do trên cơ sở các nguyên tắc tự do như pháp quyền, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và dân chủ.
Nhưng kế hoạch vĩ đại này đã thất bại ở Ukraine. Cuộc khủng hoảng ở đó cho thấy rằng chính sách hiện thực vẫn còn phù hợp -- và các quốc gia phớt lờ hiện thực sẽ gây nguy hiểm cho chính họ. Các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu đã mắc sai lầm khi cố gắng biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ở biên giới Nga. Bây giờ hậu quả đã rõ ràng, sẽ là một sai lầm lớn hơn nếu tiếp tục chính sách sai lầm này.
Các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu đã mắc sai lầm khi cố gắng biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ở biên giới Nga.
SỰ SỈ NHỤC CỦA PHƯƠNG TÂY
Khi Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc, các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn các lực lượng Hoa Kỳ ở lại châu Âu và NATO không thay đổi, một sự sắp xếp mà họ nghĩ sẽ giữ cho nước Đức thống nhất trong bình an. Nhưng họ và những người kế nhiệm người Nga không muốn khối NATO phát triển lớn hơn nữa và cho rằng các nhà ngoại giao phương Tây hiểu mối quan tâm của họ. Chính quyền Clinton rõ ràng đã nghĩ khác, và vào giữa những năm 1990, họ bắt đầu thúc đẩy NATO mở rộng.
Vòng mở rộng đầu tiên diễn ra vào năm 1999 với sự tham gia của Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan. Lần thứ hai xảy ra vào năm 2004; bao gồm Bulgaria, Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia và Slovenia. Moscow đã phàn nàn gay gắt ngay từ đầu. Ví dụ, trong chiến dịch ném bom của NATO chống lại người Serb ở Bosnia năm 1995, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói: “Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy điều gì có thể xảy ra khi NATO tiến sát đến biên giới của Liên bang Nga... Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng phát khắp châu Âu.” Nhưng người Nga vào thời điểm đó quá yếu để có thể làm chệch hướng chuyển động về phía đông của NATO - điều mà dù sao đi nữa cũng không có vẻ gì là đe dọa vì không thành viên mới nào có chung biên giới với Nga, ngoại trừ các nước Baltic nhỏ bé.
Sau đó, NATO bắt đầu nhìn xa hơn về phía đông. Tại hội nghị thượng đỉnh tháng 4 năm 2008 ở Bucharest, liên minh đã xem xét kết nạp Gruzia và Ukraine. Chính quyền George W. Bush ủng hộ việc làm này, nhưng Pháp và Đức phản đối động thái này vì sợ rằng nó sẽ gây phản cảm quá mức cho Nga. Cuối cùng, các thành viên của NATO đã đạt được một thỏa hiệp: liên minh không bắt đầu quá trình chính thức để trở thành thành viên, nhưng nó đã đưa ra một tuyên bố tán thành nguyện vọng của Gruzia và Ukraine và mạnh dạn tuyên bố, “Những quốc gia này sẽ trở thành thành viên của NATO.”
Tuy nhiên, Moscow không coi kết quả là một sự thỏa hiệp. Alexander Grushko, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao Nga, cho biết: “Việc Gruzia và Ukraine trở thành thành viên của liên minh là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với an ninh toàn châu Âu”.Putin khẳng định rằng việc kết nạp hai quốc gia này vào NATO sẽ là một “mối đe dọa trực tiếp” đối với Nga. Một tờ báo Nga đưa tin rằng Putin, trong khi nói chuyện với Bush, "đã ám chỉ rất rõ ràng rằng nếu Ukraine được chấp nhận vào NATO, thì nước này sẽ không còn tồn tại."
Cuộc xâm lược Gruzia của Nga vào tháng 8 năm 2008 lẽ ra phải xua tan mọi nghi ngờ còn sót lại về quyết tâm của Putin ngăn cản Gruzia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống Gruzia Mikheil Saakashvili, người cam kết sâu sắc trong việc đưa nước mình gia nhập NATO, vào mùa hè năm 2008 đã quyết định tái hợp nhất hai khu vực ly khai, Abkhazia và Nam Ossetia. Nhưng Putin đã tìm cách giữ Gruzia yếu và chia rẽ -- và nằm ngoài NATO. Sau khi giao tranh nổ ra giữa chính phủ Gruzia và quân ly khai Nam Ossetia, các lực lượng Nga đã giành quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã đưa ra quan điểm của mình. Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh báo rõ ràng này, NATO chưa bao giờ công khai từ bỏ mục tiêu đưa Gruzia và Ukraine vào liên minh. Và sự mở rộng của NATO tiếp tục tiến lên phía trước, với việc Albania và Croatia trở thành thành viên vào năm 2009.
EU cũng vậy, đã tiến về phía đông. Vào tháng 5 năm 2008, nó đã công bố sáng kiến Đối tác phương Đông, một chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở các quốc gia như Ukraine và hội nhập họ vào nền kinh tế EU. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Nga coi kế hoạch này là thù địch với lợi ích của đất nước họ. Tháng 2 vừa qua [2014], trước khi Yanukovych bị phế truất, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã cáo buộc EU cố gắng tạo ra một “phạm vi ảnh hưởng” ở Đông Âu. Trong mắt các nhà lãnh đạo Nga, sự mở rộng của EU là con ngựa rình rập đối với sự mở rộng của NATO.
Công cụ cuối cùng của phương Tây để tách Kiev khỏi Moscow là nỗ lực truyền bá các giá trị phương Tây và thúc đẩy dân chủ ở Ukraine và các quốc gia hậu Xô Viết khác, một kế hoạch thường đòi hỏi tài trợ cho các cá nhân và tổ chức thân phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ về các vấn đề châu Âu và Á-Âu, vào tháng 12 năm 2013 ước tính rằng Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 5 tỷ USD kể từ năm 1991 để giúp Ukraine đạt được “tương lai mà nước này xứng đáng có được”. Là một phần của nỗ lực đó, chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED – National Endowment for Democracy). Tổ chức phi lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án nhằm thúc đẩy xã hội dân sự ở Ukraine, và chủ tịch của NED, Carl Gershman, đã gọi quốc gia đó là “phần thưởng lớn nhất”. Sau khi Yanukovych giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Ukraine vào tháng 2 năm 2010, NED phán quyết rằng ông đang phá hoại các mục tiêu của mình, và vì vậy họ đã tăng cường nỗ lực để hỗ trợ phe đối lập và củng cố các thể chế dân chủ trong nước.
Khi các nhà lãnh đạo Nga nhìn vào kỹ thuật xã hội của phương Tây ở Ukraine, họ lo lắng rằng đất nước của họ có thể là nước tiếp theo. Và những nỗi sợ hãi như vậy hầu như không có căn cứ. Vào tháng Chín năm 2013, Gershman đã viết trên tờ The Washington Post, “Sự lựa chọn của Ukraine để gia nhập châu Âu sẽ đẩy nhanh sự sụp đổ của hệ tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc Nga mà Putin đại diện.” Ông nói thêm: “Người Nga cũng phải đối mặt với một sự lựa chọn, và Putin có thể thấy mình thua cuộc không chỉ ở nước ngoài mà còn trong chính nước Nga”.
TẠO KHỦNG HOẢNG
Hãy tưởng tượng sự phẫn nộ của người Mỹ nếu Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự ấn tượng và lôi kéo bao gồm cả Canada và Mexico.
Bộ ba chính sách của phương Tây – mở rộng NATO, mở rộng EU và thúc đẩy dân chủ – đã đổ thêm dầu vào lửa đang chực bùng cháy. Tia lửa bùng phát vào tháng 11 năm 2013, khi Yanukovych từ chối một thỏa thuận kinh tế lớn mà ông đang đàm phán với EU và thay vào đó quyết định chấp nhận một đề nghị ngược lại trị giá 15 tỷ đô la của Nga. Quyết định đó đã dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ leo thang trong ba tháng sau đó và đến giữa tháng Hai đã dẫn đến cái chết của khoảng một trăm người biểu tình. Các sứ giả phương Tây vội vã bay tới Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng. Ngày 21 tháng 2, chính phủ và phe đối lập đã đạt được thỏa thuận cho phép Yanukovych tiếp tục nắm quyền cho đến khi cuộc bầu cử mới được tổ chức. Nhưng thỏa thuận ấy sụp đổ ngay lập tức và Yanukovych trốn sang Nga vào ngày hôm sau. Chính phủ mới ở Kiev thân phương Tây và chống Nga từ cốt lõi, và nó bao gồm bốn thành viên cấp cao có thể được dán nhãn hợp pháp là tân phát xít.
Mặc dù mức độ tham gia đầy đủ của Hoa Kỳ vẫn chưa được đưa ra ánh sáng, nhưng rõ ràng là Washington đã ủng hộ cuộc đảo chính. Nuland và Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa John McCain đã tham gia các cuộc biểu tình chống chính phủ, và Geoffrey Pyatt, đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine, đã tuyên bố sau khi Yanukovych bị lật đổ rằng đó là “một ngày được ghi vào sử sách.” Như một đoạn ghi âm điện thoại bị rò rỉ được tiết lộ, Nuland đã ủng hộ việc thay đổi chế độ và muốn chính trị gia Ukraine Arseniy Yatsenyuk trở thành thủ tướng trong chính phủ mới, đúng như ông ta đã giữ vị trí đó. Không có gì ngạc nhiên khi người Nga thuộc mọi phe phái nghĩ rằng phương Tây đã đóng một vai trò nào đó trong việc lật đổ Yanukovych.
Đối với Putin, thời điểm để hành động chống lại Ukraine và phương Tây đã đến. Ngay sau ngày 22 tháng 2, ông ra lệnh cho các lực lượng Nga chiếm Crimea từ Ukraine, và ngay sau đó, ông sáp nhập nó vào Nga. Nhiệm vụ tỏ ra tương đối dễ dàng, nhờ hàng ngàn binh sĩ Nga đã đóng quân tại một căn cứ hải quân ở cảng Sevastopol trên bán đảo Crimea. Cả Crimea cũng trở thành một mục tiêu dễ dàng vì người gốc dân tộc Nga chiếm khoảng 60% dân số. Hầu hết trong số họ muốn rời khỏi Ukraine.
Tiếp theo, Putin gây áp lực lớn lên chính phủ mới ở Kiev để ngăn cản chính phủ này đứng về phía phương Tây chống lại Moscow, nói rõ rằng ông sẽ phá hủy Ukraine với tư cách là một quốc gia đang hoạt động trước khi cho phép nước này trở thành một thành trì của phương Tây trước ngưỡng cửa của Nga. Để đạt được mục tiêu đó, ông đã cung cấp cố vấn, vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho phe ly khai Nga ở miền đông Ukraine, những người đang đẩy đất nước vào cuộc nội chiến. Ông đã tập trung một đội quân lớn ở biên giới Ukraine, đe dọa xâm lược nếu chính phủ đàn áp quân nổi dậy. Và ông đã tăng mạnh giá khí đốt tự nhiên mà Nga bán cho Ukraine và yêu cầu thanh toán cho những lần xuất khẩu trước đây. Putin đang chơi cứng rắn.
CHẨN ĐOÁN
Hành động của Putin là dễ hiểu. Một vùng đất rộng lớn bằng phẳng mà nước Pháp thời Napoléon, đế quốc Đức và Đức Quốc xã đều vượt qua để tấn công chính nước Nga, Ukraine đóng vai trò là một quốc gia vùng đệm có tầm quan trọng chiến lược to lớn đối với Nga. Không một nhà lãnh đạo Nga nào có thể dung thứ cho một liên minh quân sự từng là kẻ thù truyền kiếp của Moscow đến gần đây đang dịch chuyển đến Ukraine. Bất kỳ nhà lãnh đạo Nga nào cũng sẽ không đứng yên trong khi phương Tây giúp thành lập một chính phủ quyết tâm sáp nhập Ukraine vào phương Tây.
Washington có thể không thích quan điểm của Moscow, nhưng họ nên hiểu logic đằng sau đó. Đây là Địa chính trị 101: các cường quốc luôn nhạy cảm với các mối đe dọa tiềm ẩn gần lãnh thổ của họ. Rốt cuộc, Hoa Kỳ không dung thứ cho các cường quốc xa xôi triển khai lực lượng quân sự ở bất cứ đâu ở Tây Bán cầu, càng không phải ở biên giới của nó. Hãy tưởng tượng sự phẫn nộ ở Washington nếu Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự ấn tượng và cố gắng đưa Canada và Mexico vào đó. Bỏ logic sang một bên, các nhà lãnh đạo Nga đã nhiều lần nói với các đối tác phương Tây rằng họ coi việc NATO mở rộng sang Gruzia và Ukraine là không thể chấp nhận được, cùng với bất kỳ nỗ lực nào nhằm khiến các nước này chống lại Nga - một thông điệp mà cuộc chiến Nga-Gruzia năm 2008 cũng đã thể hiện rõ ràng.
Các quan chức từ Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu cho rằng họ đã cố gắng hết sức để xoa dịu nỗi sợ hãi của Nga và Moscow nên hiểu rằng NATO không có kế hoạch nào đối với Nga. Ngoài việc liên tục phủ nhận rằng việc mở rộng của nó là nhằm kiềm chế Nga, liên minh này chưa bao giờ triển khai lực lượng quân sự thường trực tại các quốc gia thành viên mới của mình. Năm 2002, nó thậm chí còn thành lập một cơ quan gọi là Hội đồng NATO-Nga trong nỗ lực thúc đẩy hợp tác. Để xoa dịu Nga hơn nữa, vào năm 2009, Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa mới của mình trên các tàu chiến ở vùng biển châu Âu, ít nhất là ban đầu, thay vì trên lãnh thổ của Séc hoặc Ba Lan. Nhưng không có biện pháp nào trong số này hiệu quả; người Nga vẫn kiên định phản đối việc NATO mở rộng, đặc biệt là vào Gruzia và Ukraine. Và chính người Nga, chứ không phải phương Tây, mới là người quyết định tối hậu điều gì được coi là mối đe dọa đối với họ.
Để hiểu tại sao phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, không hiểu rằng chính sách Ukraine của họ đang đặt nền móng cho một cuộc đụng độ lớn với Nga, người ta phải quay trở lại giữa những năm 1990, khi chính quyền Clinton bắt đầu ủng hộ việc mở rộng NATO. Các học giả đưa ra nhiều lập luận ủng hộ và chống lại việc mở rộng, nhưng không có sự đồng thuận về việc phải làm. Ví dụ, hầu hết những người di cư Đông Âu ở Hoa Kỳ và người thân của họ ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng, bởi vì họ muốn NATO bảo vệ các quốc gia như Hungary và Ba Lan. Một số người theo chủ nghĩa hiện thực cũng ủng hộ chính sách này vì họ nghĩ rằng Nga vẫn cần phải được kiềm chế.
Nhưng hầu hết những người theo chủ nghĩa hiện thực đều phản đối việc mở rộng, với niềm tin rằng một cường quốc đang suy tàn với dân số già và nền kinh tế một chiều thực tế không cần phải kiềm chế. Và họ sợ rằng việc mở rộng sẽ chỉ tạo động cơ cho Moscow gây rắc rối ở Đông Âu. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ George Kennan đã nói rõ quan điểm này trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, ngay sau khi Thượng viện Hoa Kỳ thông qua vòng mở rộng đầu tiên của NATO. “Tôi nghĩ rằng người Nga sẽ dần phản ứng khá bất lợi và điều đó sẽ ảnh hưởng đến chính sách của họ,” ông nói. “Tôi nghĩ đó là một sai lầm bi thảm. Không có lý do gì cho việc này cả. Không ai đe dọa bất cứ ai.”
Hoa Kỳ và các đồng minh của họ nên từ bỏ kế hoạch phương tây hóa Ukraine và thay vào đó đặt mục tiêu biến nước này thành một vùng đệm trung lập.
Mặt khác, hầu hết những người theo chủ nghĩa tự do lại ủng hộ việc mở rộng, bao gồm nhiều thành viên chủ chốt của chính quyền Clinton. Họ tin rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã làm thay đổi nền chính trị quốc tế một cách cơ bản và rằng một trật tự hậu quốc gia mới đã thay thế logic hiện thực từng chi phối châu Âu. Hoa Kỳ không chỉ là “quốc gia không thể thiếu”, như Ngoại trưởng Madeleine Albright đã nói; quốc gia này cũng là một bá quyền lành tính và do đó khó có thể bị coi là một mối đe dọa ở Moscow. Về bản chất, mục đích là làm cho toàn bộ lục địa trông giống như châu Âu phương Tây.
Và do đó, Hoa Kỳ và các đồng minh đã tìm cách thúc đẩy dân chủ ở các quốc gia Đông Âu, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia này và đưa họ vào các thể chế quốc tế. Giành chiến thắng trong cuộc tranh luận ở Hoa Kỳ, những người theo chủ nghĩa tự do gặp rất ít khó khăn trong việc thuyết phục các đồng minh châu Âu của họ ủng hộ việc mở rộng NATO. Xét cho cùng, với những thành tựu trong quá khứ của EU, người châu Âu thậm chí còn gắn bó hơn người Mỹ với ý tưởng rằng địa chính trị không còn quan trọng nữa và rằng một trật tự tự do bao gồm tất cả có thể duy trì hòa bình ở châu Âu.
Những người theo chủ nghĩa tự do đã thống trị các cuộc thảo luận về an ninh châu Âu trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này một cách triệt để đến mức ngay cả khi liên minh áp dụng chính sách mở cửa cho tăng trưởng, việc mở rộng NATO đã vấp phải rất ít sự phản đối của những người theo chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan tự do giờ đây đã trở thành giáo điều được chấp nhận trong giới quan chức Hoa Kỳ. Ví dụ, vào tháng 3, Tổng thống Barack Obama đã có bài phát biểu về Ukraine, trong đó ông nói nhiều lần về “những lý tưởng” thúc đẩy chính sách của phương Tây và việc những lý tưởng đó “thường bị đe dọa bởi quan điểm quyền lực cũ hơn, truyền thống hơn như thế nào”. Phản ứng của Ngoại trưởng John Kerry đối với cuộc khủng hoảng Crimea cũng phản ánh quan điểm này: “Ở thế kỷ 21, bạn đừng hành xử theo kiểu thế kỷ 19 bằng cách xâm lược một quốc gia khác với lý do hoàn toàn ngụy biện.”
Về bản chất, hai bên đã vận hành với những kịch bản khác nhau: Putin và những người đồng hương của ông đã suy nghĩ và hành động theo những mệnh lệnh của chủ nghĩa hiện thực, trong khi những người đồng cấp phương Tây của họ tuân theo những ý tưởng tự do về chính trị quốc tế. Kết quả là Mỹ và các đồng minh đã vô tình gây ra một cuộc khủng hoảng lớn về Ukraine.
TRÒ CHƠI ĐỔ LỖI
Cũng trong cuộc phỏng vấn năm 1998 đó, Kennan dự đoán rằng việc mở rộng NATO sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng, sau đó những người ủng hộ việc mở rộng sẽ “nói rằng chúng tôi luôn nói với bạn rằng người Nga là như vậy”. Như thể được gợi ý, hầu hết các quan chức phương Tây đã miêu tả Putin là thủ phạm thực sự trong tình trạng khó khăn ở Ukraine. Hồi tháng 3, theo The New York Times, Thủ tướng Đức Angela Merkel ám chỉ Putin là người vô lý, nói với Obama rằng ông ta đang “ở một thế giới khác”. Mặc dù Putin chắc chắn có khuynh hướng chuyên quyền, nhưng không có bằng chứng nào ủng hộ cáo buộc rằng ông bị mất cân bằng về tinh thần. Ngược lại: ông là một chiến lược gia hạng nhất, người nên được sợ hãi và tôn trọng từ bất cứ ai thách thức ông về chính sách đối ngoại.
Các nhà phân tích khác cho rằng, hợp lý hơn, Putin lấy làm tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô và quyết tâm đảo ngược nó bằng cách mở rộng biên giới của Nga. Theo cách giải thích này, Putin, sau khi chiếm Crimea, hiện đang thử nghiệm vùng biển này để xem liệu có phải là thời điểm thích hợp để chinh phục Ukraine, hoặc ít nhất là phần phía đông của nó, và cuối cùng ông ta sẽ hành xử hung hăng đối với các quốc gia khác trong khu vực lân cận của Nga. Đối với một số người trong phe này, Putin đại diện cho một Adolf Hitler thời hiện đại, và đạt được bất kỳ hình thức thỏa thuận nào với ông ta sẽ lặp lại sai lầm của Munich. Do đó, NATO phải thừa nhận Gruzia và Ukraine để kiềm chế Nga trước khi nước này thống trị các nước láng giềng và đe dọa Tây Âu.
Lập luận này sụp đổ khi kiểm tra chặt chẽ. Nếu Putin cam kết tạo ra một nước Nga vĩ đại hơn, các dấu hiệu về ý định của ông gần như chắc chắn sẽ xuất hiện trước ngày 22 tháng 2 [năm 2014]. Nhưng hầu như không có bằng chứng nào cho thấy ông muốn chiếm Crimea, càng không phải bất kỳ lãnh thổ nào khác ở Ukraine, trước ngày đó. Ngay cả các nhà lãnh đạo phương Tây ủng hộ việc mở rộng NATO cũng không làm như vậy vì lo ngại rằng Nga sắp sử dụng lực lượng quân sự. Hành động của Putin ở Crimea khiến họ hoàn toàn bất ngờ và dường như là một phản ứng tự phát đối với việc lật đổ Yanukovych. Ngay sau đó, ngay cả Putin cũng nói rằng ông phản đối việc Crimea ly khai, trước khi nhanh chóng đổi ý.
Bên cạnh đó, ngay cả khi muốn, Nga không có khả năng dễ dàng chinh phục và sáp nhập miền đông Ukraine, chứ đừng nói đến toàn bộ đất nước. Khoảng 15 triệu người - chiếm 1/3 dân số Ukraine - sống giữa sông Dnieper, con sông chia đôi đất nước và biên giới Nga. Đại đa số những người này muốn tiếp tục là một phần của Ukraine và chắc chắn sẽ chống lại sự chiếm đóng của Nga. Hơn nữa, quân đội tầm thường của Nga, vốn có ít dấu hiệu trở thành một Wehrmacht hiện đại, sẽ có rất ít cơ hội bình định toàn bộ Ukraine. Mátxcơva cũng ở vị thế thấp kém để chi trả cho một cuộc chiếm đóng tốn kém; nền kinh tế yếu kém của nó sẽ còn bị ảnh hưởng nhiều hơn khi đối mặt với các lệnh trừng phạt.
Nhưng ngay cả khi Nga tự hào về một cỗ máy quân sự hùng mạnh và một nền kinh tế ấn tượng, thì có lẽ nước này vẫn không thể chiếm đóng thành công Ukraine. Người ta chỉ cần xem xét kinh nghiệm của Liên Xô và Hoa Kỳ ở Afghanistan, kinh nghiệm của Hoa Kỳ ở Việt Nam và Iraq, và kinh nghiệm của Nga ở Chechnya để được nhắc nhở rằng các cuộc chiếm đóng quân sự thường kết thúc tồi tệ. Putin chắc chắn hiểu rằng cố khuất phục Ukraine chẳng khác nào nuốt chửng một con nhím. Phản ứng của ông ấy đối với các sự kiện ở đó là phòng thủ, không tấn công.
MỘT LỐI THOÁT
Cho rằng hầu hết các nhà lãnh đạo phương Tây tiếp tục phủ nhận rằng hành vi của Putin có thể được thúc đẩy bởi những lo ngại an ninh chính đáng, không có gì ngạc nhiên khi họ đã cố gắng sửa sai bằng cách tăng gấp đôi các chính sách hiện có của họ và trừng phạt Nga để ngăn chặn sự xâm lược hơn nữa. Mặc dù Kerry khẳng định rằng “tất cả các lựa chọn đều nằm trên bàn”, nhưng cả Mỹ và các đồng minh NATO của họ đều không sẵn sàng sử dụng vũ lực để bảo vệ Ukraine. Thay vào đó, phương Tây đang dựa vào các biện pháp trừng phạt kinh tế để buộc Nga chấm dứt hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở miền đông Ukraine. Vào tháng 7, Hoa Kỳ và EU đã đưa ra vòng trừng phạt hạn chế thứ ba, chủ yếu nhắm vào các cá nhân cấp cao có quan hệ mật thiết với chính phủ Nga và một số ngân hàng, công ty năng lượng và công ty quốc phòng nổi tiếng. Họ cũng đe dọa sẽ tung ra một vòng trừng phạt khác, cứng rắn hơn, nhằm vào toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế Nga.
Những biện pháp như vậy sẽ có rất ít tác dụng. Dù sao đi nữa, các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt có thể không cần bàn cãi; Các nước Tây Âu, đặc biệt là Đức, đã phản đối việc áp đặt chúng vì sợ rằng Nga có thể trả đũa và gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng trong EU. Nhưng ngay cả khi Hoa Kỳ có thể thuyết phục các đồng minh của mình ban hành các biện pháp cứng rắn, Putin có lẽ sẽ không thay đổi quyết định của mình. Lịch sử cho thấy rằng các quốc gia sẽ chịu đựng số lượng trừng phạt khổng lồ để bảo vệ lợi ích chiến lược cốt lõi của họ. Không có lý do gì để nghĩ rằng Nga là một ngoại lệ đối với quy tắc này.
Các nhà lãnh đạo phương Tây cũng đã bám vào các chính sách khiêu khích đã gây ra cuộc khủng hoảng ngay từ đầu. Vào tháng 4, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joseph Biden đã gặp các nhà lập pháp Ukraine và nói với họ, “Đây là cơ hội thứ hai để thực hiện lời hứa ban đầu của Cách mạng Cam.” John Brennan, giám đốc CIA, đã không giúp được gì khi, cùng tháng đó, ông đến thăm Kiev trong một chuyến đi mà Nhà Trắng cho biết là nhằm cải thiện hợp tác an ninh với chính phủ Ukraine.
Trong khi đó, EU đã tiếp tục thúc đẩy quan hệ đối tác phía Đông của mình. Vào tháng 3, José Manuel Barroso, chủ tịch Ủy ban châu Âu, đã tóm tắt suy nghĩ của EU về Ukraine, nói rằng: “Chúng tôi có một món nợ, nghĩa vụ đoàn kết với quốc gia đó và chúng tôi sẽ nỗ lực để họ xích lại gần chúng tôi nhất có thể.” Và quả nhiên, vào ngày 27 tháng 6, EU và Ukraine đã ký thỏa thuận kinh tế mà Yanukovych đã từ chối một cách định mệnh bảy tháng trước đó. Cũng trong tháng 6, tại một cuộc họp của các ngoại trưởng thành viên NATO, người ta đã đồng ý rằng liên minh sẽ vẫn mở cửa cho các thành viên mới, mặc dù các ngoại trưởng đã kiềm chế không nhắc đến tên Ukraine. Tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen tuyên bố: “Không nước thứ ba nào có quyền phủ quyết đối với việc mở rộng NATO.” Các ngoại trưởng cũng đồng ý hỗ trợ các biện pháp khác nhau để cải thiện khả năng quân sự của Ukraine trong các lĩnh vực như chỉ huy và kiểm soát, hậu cần và an ninh mạng. Các nhà lãnh đạo Nga đương nhiên đã chùn bước trước những hành động này; phản ứng của phương Tây đối với cuộc khủng hoảng sẽ chỉ làm cho tình hình tồi tệ trở nên tồi tệ hơn.
Tuy nhiên, có một giải pháp cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine - mặc dù nó sẽ đòi hỏi phương Tây phải suy nghĩ về đất nước này theo một cách mới về cơ bản. Hoa Kỳ và các đồng minh nên từ bỏ kế hoạch phương tây hóa Ukraine và thay vào đó đặt mục tiêu biến nước này thành một vùng đệm trung lập giữa NATO và Nga, giống như lập trường của Áo trong Chiến tranh Lạnh. Các nhà lãnh đạo phương Tây nên thừa nhận rằng Ukraine rất quan trọng đối với Putin đến mức họ không thể ủng hộ một chế độ chống Nga ở đó. Điều này không có nghĩa là một chính phủ Ukraine trong tương lai sẽ phải thân Nga hoặc chống NATO. Ngược lại, mục tiêu phải là một Ukraine có chủ quyền không thuộc về phe Nga hay phương Tây.
Để đạt được mục đích này, Hoa Kỳ và các đồng minh nên công khai loại trừ việc NATO mở rộng sang cả Gruzia và Ukraine. Phương Tây cũng nên giúp xây dựng một kế hoạch giải cứu kinh tế cho Ukraine do EU, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nga và Hoa Kỳ đồng tài trợ - một đề xuất mà Moscow nên hoan nghênh, vì lợi ích của họ là có một Ukraine thịnh vượng và ổn định trên thế giới, ở sườn phía tây. Và phương Tây nên hạn chế đáng kể các nỗ lực cải tạo xã hội bên trong Ukraine. Đã đến lúc chấm dứt sự ủng hộ của phương Tây đối với một cuộc Cách mạng Cam khác. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Châu Âu nên khuyến khích Ukraine tôn trọng các quyền thiểu số, đặc biệt là quyền ngôn ngữ của những người nói tiếng Nga.
Một số người có thể lập luận rằng việc thay đổi chính sách đối với Ukraine vào thời điểm muộn màng này sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Chắc chắn sẽ có những chi phí nhất định, nhưng chi phí sẽ lớn hơn nhiều nếu tiếp tục một chiến lược sai lầm. Hơn nữa, các quốc gia khác có thể sẽ tôn trọng một quốc gia học hỏi được từ những sai lầm của mình để cuối cùng đưa ra chính sách giải quyết vấn đề hiện tại một cách hiệu quả. Lựa chọn đó rõ ràng là mở cho Hoa Kỳ.
Người ta cũng nghe tuyên bố rằng Ukraine có quyền quyết định họ muốn liên minh với ai và người Nga không có quyền ngăn cản Kiev gia nhập phương Tây. Đây là một cách nguy hiểm để Ukraine suy nghĩ trong các lựa chọn chính sách đối ngoại của mình. Sự thật đáng buồn là điều đó thường có thể đúng khi chính trị của các cường quốc đang diễn ra. Các quyền trừu tượng như quyền tự quyết phần lớn là vô nghĩa khi các quốc gia hùng mạnh xung đột với các quốc gia yếu hơn. Cuba có quyền thành lập liên minh quân sự với Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh không? Hoa Kỳ chắc chắn không nghĩ như vậy, và người Nga cũng nghĩ như vậy về việc Ukraine gia nhập phương Tây. Lợi ích của Ukraine là hiểu được những sự thật của cuộc sống và bước đi cẩn thận khi đối phó với nước láng giềng hùng mạnh hơn.
Tuy nhiên, ngay cả khi người ta bác bỏ phân tích này và tin rằng Ukraine có quyền yêu cầu gia nhập EU và NATO, thì thực tế vẫn là Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu có quyền từ chối những yêu cầu này. Không có lý do gì mà phương Tây phải hỗ trợ Ukraine nếu họ quyết tâm theo đuổi một chính sách đối ngoại sai lầm, đặc biệt nếu quốc phòng của họ không phải là lợi ích sống còn. Nuông chiều giấc mơ của một số người Ukraine không đáng để gây ra sự thù địch và xung đột, đặc biệt là đối với người dân Ukraine.
Tất nhiên, một số nhà phân tích có thể thừa nhận rằng NATO đã xử lý các mối quan hệ với Ukraine một cách tồi tệ và vẫn cho rằng Nga là một kẻ thù sẽ ngày càng trở nên ghê gớm hơn theo thời gian - và phương Tây do đó không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chính sách hiện tại của mình. Nhưng quan điểm này là sai lầm nghiêm trọng. Nga là một cường quốc đang suy yếu và sẽ chỉ yếu đi theo thời gian. Hơn nữa, ngay cả khi Nga là một cường quốc đang lên, thì việc sáp nhập Ukraine vào NATO cũng không có ý nghĩa gì. Lý do rất đơn giản: Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu không coi Ukraine là lợi ích chiến lược cốt lõi, vì việc họ không sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự để hỗ trợ Ukraine đã được chứng minh. Do đó, sẽ là đỉnh điểm của sự điên rồ khi tạo ra một thành viên NATO mới mà các thành viên khác không có ý định bảo vệ.
Bám sát chính sách hiện tại cũng sẽ làm phức tạp thêm mối quan hệ của phương Tây với Moscow về các vấn đề khác. Hoa Kỳ cần sự hỗ trợ của Nga để rút thiết bị của Hoa Kỳ khỏi Afghanistan thông qua lãnh thổ Nga, đạt được thỏa thuận hạt nhân với Iran và ổn định tình hình ở Syria. Trên thực tế, Moscow đã giúp Washington trong cả ba vấn đề này trong quá khứ; vào mùa hè năm 2013, chính Putin chữa cho Obama hóc hạt dẻ, kéo ra khỏi lửa bằng cách xúc tiến thỏa thuận để Syria đồng ý từ bỏ vũ khí hóa học, nhờ đó tránh được cuộc tấn công quân sự của Mỹ mà Obama đã đe dọa. Hoa Kỳ một ngày nào đó cũng sẽ cần sự giúp đỡ của Nga để kiềm chế một Trung Quốc đang trỗi dậy. Tuy nhiên, chính sách hiện tại của Mỹ chỉ khiến Moscow và Bắc Kinh xích lại gần nhau hơn.
Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu hiện phải đối mặt với sự lựa chọn về Ukraine. Họ có thể tiếp tục chính sách hiện tại của mình, chính sách này sẽ làm trầm trọng thêm sự thù địch với Nga và tàn phá Ukraine trong quá trình này – một kịch bản trong đó tất cả mọi người sẽ trở thành kẻ thua cuộc. Hoặc họ có thể chuyển hướng và làm việc để tạo ra một Ukraine thịnh vượng nhưng trung lập, một Ukraine không đe dọa Nga và cho phép phương Tây hàn gắn quan hệ với Moscow. Với cách tiếp cận đó, tất cả các bên sẽ giành chiến thắng.■
http://www.mearsheimer.com/wp-content/uploads/2019/06/Why-the-Ukraine-Crisis-Is.pdf